Nhà kinh tế học của Đại học Harvard, Alberto Alesina (Alberto Alesina) và Ngân hàng Thế giới David Doll cho biết: Viện trợ nước ngoài phụ thuộc phần lớn vào lý do chính trị và chiến lược, tiếp theo là nước nhận Nhu cầu kinh tế và chính trị. Nhận xét trong nghiên cứu chung. Một ví dụ là viện trợ của Mỹ cho Israel và Ai Cập. Năm 1979, Cairo nhận được hỗ trợ tài chính để đạt được thỏa thuận hòa bình với Tel Aviv. Trong những năm qua, viện trợ cho hai quốc gia này đã chiếm một phần ba tổng số viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ. Chuyên gia viện trợ nước ngoài John Seville nói: “Israel không cần viện trợ tài chính. Họ đã là một nước giàu.” Tuy nhiên, vì lý do chính sách trong nước, ngoại trừ thực tế của Israel. Là nền dân chủ Mỹ thân thiện duy nhất trong khu vực, Washington đã hỗ trợ tài chính cho Tel Aviv trong cuộc đấu tranh khốc liệt và tốn kém chống lại người Palestine. Đầu năm nay, trong một dự luật chi phí chiến tranh ở Iraq, Quốc hội Mỹ đã cung cấp cho Israel 1 tỷ đô la viện trợ quân sự và 9 tỷ đô la bảo lãnh cho khoản vay mới. Tel Aviv nhận 2,7 tỷ đô la Mỹ hàng năm.
Trong Chiến tranh Lạnh vào những năm 1980, Somalia, Sudan và Zaire (nay là Congo) là bốn quốc gia nhận được nhiều viện trợ nhất từ Hoa Kỳ ở Châu Phi. ) Và Liberia. Khoản tài trợ này được thiết kế để hỗ trợ các chế độ phi cộng sản, bất kể họ xấu đến đâu, cạnh tranh với Liên Xô về ảnh hưởng thế giới. Mặc dù tình hình kinh tế tồi tệ, Mobutu Sese Seko của Zaire đã nhận được 9 khoản vay từ Ngân hàng Thế giới với sự chấp thuận của Hoa Kỳ. Chuyên gia Sewell của Viện Smithsonian (Viện Smithsonian) cho biết: “Tất cả số tiền này không giúp phát triển. Một số tiền được gửi vào túi của cơ quan quản lý.”
Khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, vẫn còn 10 năm nữa. Một số người hy vọng rằng viện trợ song phương sẽ tập trung nhiều hơn vào các mục tiêu phát triển và nhân đạo. Chính quyền Bush có kế hoạch chi 15 tỷ đô la Mỹ để chống lại AIDS ở nước ngoài trong vòng năm năm. Tamara Wittes, một chuyên gia tại Viện Hòa bình Hoa Kỳ tại Washington, cho biết kế hoạch này cho thấy Hoa Kỳ sẵn sàng chi tiền cho các vấn đề phát triển kinh tế. Điều này có thể tạo ra một lợi thế chính trị ở Châu Phi. Nhưng đây thực sự chỉ là một cử chỉ của con người. Ông Dollar nói: “Tôi hy vọng thế giới đã thay đổi, nhưng trên thực tế chính trị vẫn sẽ đóng một vai trò quan trọng.” Sự thật đã chứng minh rằng điều này có được khi Hoa Kỳ và Anh thất bại vào cuối năm ngoái. Tìm đủ người ủng hộ trong Hội đồng Bảo an để thông qua nghị quyết thứ hai cho phép xâm chiếm Iraq. Nếu quân đội Mỹ được phép sử dụng Thổ Nhĩ Kỳ, Washington sẽ cung cấp cho Thổ Nhĩ Kỳ 6 tỷ đô la viện trợ. Ankara vẫn có thể nhận được nhiều sự trợ giúp hơn để tránh chuyển quân sang giếng dầu Kirkuk.
Viện trợ của Hoa Kỳ cho Pakistan đã ngừng năm 1998, khi Islamabad kích nổ quả bom hạt nhân và nước này đã nối lại viện trợ cho Pakistan sau khi trở về. Các đồng minh của Washington đang chống khủng bố và al-Qaeda. Liên quan đến Triều Tiên, Mỹ và Hàn Quốc đang giải quyết một câu hỏi khó: Họ có nên viện trợ lương thực cho Bình Nhưỡng trên cơ sở nhân đạo hay họ nên trừng phạt Bình Nhưỡng vì sử dụng vũ khí hạt nhân? • Các yếu tố chính trị khác cũng ảnh hưởng đến mức viện trợ. Theo nghiên cứu của Arecina-Dollar, “những người bạn” người Mỹ hoặc Nhật Bản đã bỏ phiếu “chính xác” tại Liên Hợp Quốc đã nhận được sự giúp đỡ trang nghiêm. Theo cách này, các nhà tài trợ chỉ đơn giản là “mua” hỗ trợ chính trị từ các nước đang phát triển. Một yếu tố khác ảnh hưởng đến viện trợ là tình trạng thuộc địa. Một thuộc địa phi dân chủ trước đây nhận được viện trợ gấp đôi từ một quốc gia so với một nền dân chủ không thuộc địa. Các thuộc địa cũ cũng được hưởng lợi từ các ưu đãi thương mại nhiều hơn. Điều này đặc biệt đúng với sự trợ giúp của Pháp.
Nguyễn Hạnh (theo CSM)
Leave a Reply