Chuyên gia đề xuất giải pháp hạn chế thiệt hại do lũ lụt ở Việt Nam

Home / Phân tích / Chuyên gia đề xuất giải pháp hạn chế thiệt hại do lũ lụt ở Việt Nam

Kể từ đầu tháng 10, nhiều tỉnh ở miền Trung Việt Nam đã hứng chịu những cơn bão lớn bất thường và mưa lớn, gây ra lũ lụt và sạt lở đất trên diện rộng. Ngày 23/10, thiên tai đã làm 119 người chết, 19 người mất tích, 170.000 ngôi nhà bị ngập, giao thông qua Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Quảng Trị và Hà Tĩnh bị chia cắt trong nhiều ngày. Khi đánh giá về nguyên nhân gây ra bão lũ nghiêm trọng, Jun Erik Rentschler, chuyên gia về biến đổi khí hậu và phát triển bền vững tại Ngân hàng Thế giới, cho rằng Việt Nam trải qua một chu kỳ, lượng mưa hàng năm cao hơn bình thường. Thời gian định kỳ, chẳng hạn như El Niño. -Renschler cho biết có dấu hiệu cho thấy đợt mưa lớn vẫn chưa kết thúc ở miền Trung Việt Nam.

“Thiên tai xảy ra ở Việt Nam do một sự kiện nghiêm trọng, chẳng hạn như bão, đã gây ra. Renschler nói:” Chúng tôi đã chứng kiến ​​lũ lụt ở Việt Nam. “Theo dự báo của Việt Nam và quốc tế, một cơn bão Sadr nữa sẽ đổ bộ vào vùng tâm. Nhiều khả năng trước khi đổ bộ bão sẽ suy yếu thành áp thấp nhiệt đới do tác động của không khí lạnh khô từ phía Bắc và nhiệt độ thấp trên biển. Hôm nay, 26/10. Đến chiều tối, tại Nghệ An, Thừa Thiên Huế có mưa, thường từ 50 đến 150 mm — Cơn bão này đã gây ngập lụt trên diện rộng tại Thừa Thiên Huế vào ngày 10 tháng 5. Ảnh: Võ Thanh .— – Ông Nguyễn Huy Dũng, Chuyên gia cao cấp về Quản lý rủi ro thiên tai tại Ngân hàng Thế giới Việt Nam, đã mô tả ba nguyên nhân gây ra mưa, lũ và các thảm họa chung gây thiệt hại nặng nề cho người dân và cộng đồng.

Thứ nhất, nền tảng của các khu vực dễ bị tổn thương, đặc biệt là các khu vực ven biển Cơ sở vật chất đang phát triển nhanh chóng, khi xem xét các dự án cơ sở hạ tầng nhưng không đánh giá rủi ro, dự án có thể bị phá hủy nếu xảy ra thiên tai Năm 2016, cầu Dịch Nghi ở huyện Phú Mạo, tỉnh Bình Định bị sập do thiết kế chắn sông. Ông Tung Chee-hwa cho rằng, mặc dù Việt Nam đã áp dụng nhiều chính sách và khuôn khổ pháp lý về quản lý thiên tai nhưng vẫn còn những vấn đề cần cải thiện. Thứ ba, sự thiếu phối hợp giữa các cơ quan quản lý. Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm quản lý tài nguyên nước, trong khi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm vận hành các đập thủy điện, nước tưới và quản lý rủi ro, điều này đã khiến mỗi bộ phải ban hành các chính sách và quy định riêng về các vấn đề tương tự trong ứng phó với thiên tai, gây chồng chéo. Ông Dong Chee-hwa cho rằng: “Nếu Việt Nam không cải thiện được ba vấn đề trên, thiệt hại do thiên tai gây ra trong vài năm tới sẽ nghiêm trọng hơn. “-Trong mười năm tới, thiệt hại do thiên tai gây ra ở Việt Nam có thể xuống tới 4 tỷ đồng nếu chính phủ trì hoãn các hành động cần thiết nêu trên theo báo cáo” Phát triển các vùng ven biển ở Việt Nam-Cơ hội và Rủi ro Thiên tai “do Ngân hàng Thế giới phát hành ngày 22/10. Đô la Mỹ. Một trong sáu tác giả của báo cáo.

Đồng thời, Lentzler cho rằng thiên tai (loại hình thiên tai phổ biến nhất) cần hạn chế thiệt hại do thiên tai, đặc biệt là bão và lũ lụt. Ở Việt Nam, Năm điểm phải được cải thiện.

Việt Nam phải cải thiện chất lượng thông tin và dữ liệu. Hiện tại, nhiều quyết định được đưa ra dựa trên hệ thống dữ liệu kém, bao gồm thông tin về rủi ro khí hậu, vị trí của các bất động sản chính và các cơ sở đô thị. Do đó, Chính quyền khó có thể đưa ra quyết định sáng suốt đối với các vùng ven biển.

Cần phải lập quy hoạch vùng tránh rủi ro Các thành phố ven biển đang phát triển rất nhanh nên các khu vực an toàn đã “cạn kiệt”, ước tính khoảng 30% các tòa nhà đã được xây dựng. Các khu vực ven biển, do đó, các phát triển mới sẽ được thực hiện ở những khu vực có nguy cơ thiên tai cao.

Cần phải tính toán rủi ro của hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, năng lượng và nước là rất cần thiết cho sự phát triển của con người và các vùng ven biển. Do đó, chính phủ phải xem xét các rủi ro liên quan đến việc xây dựng, bảo trì và vận hành các hệ thống này. Hệ thống đê điều cũng phải được nâng cấp, áp dụng các tiêu chuẩn mới nhất và được đánh giá thường xuyên để đảm bảo rằng chúng có thể chống chọi được với rủi ro.

Renschler chỉ ra rằng gần đây khu vực miền Trung của đất nước Bão lũ trên địa bàn đã phá hủy nhiều cơ sở hạ tầng quan trọng, trong đó có đường giao thông, cứu hộ khó khăn, ông Đông cho rằng 2/3 hệ thống đê bao hiện nay.Việt Nam đang thấp hơn tiêu chuẩn do chính phủ quy định nên thời gian tới phải sửa đổi tiêu chuẩn kỹ thuật.

Việt Nam phải đảm bảo hệ sinh thái của mình và đưa nó vào quy hoạch. Các chiến lược đối phó với thiên tai. Đầu tư xây dựng đê điều không phải là giải pháp duy nhất giúp bảo vệ bờ biển. Các hệ sinh thái như rừng ngập mặn và cồn cát có thể giúp bảo vệ miễn phí các cộng đồng ven biển, chẳng hạn như xây đập.

Theo Dong, Việt Nam có rừng ngập mặn, rạn san hô và cồn cát. . Cát là một nguồn tài nguyên tốt. Tuy nhiên, các hệ thống này đã bị phá hủy nghiêm trọng do phát triển kinh tế, chẳng hạn như việc xây dựng các khách sạn và khu nghỉ dưỡng. Việc phục hồi hệ sinh thái là rất quan trọng.

Cần có chiến lược phòng chống thiên tai. Thực tế, sau khi tất cả các kế hoạch được triển khai, tại Việt Nam vẫn khó tránh khỏi những “cú sốc”. Do đó, điều quan trọng là phải có khả năng giảm thiểu thiệt hại, chẳng hạn như phát triển hệ thống cảnh báo sớm để giúp hạn chế số người thiệt mạng. Việt Nam cũng phải xây dựng năng lực để các khu vực dễ bị ảnh hưởng bởi bão lũ có thể phục hồi nhanh chóng. Theo các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, nếu Việt Nam không giải quyết tác động của biến đổi khí hậu, số người nghèo ở nước này có thể tăng thêm 1,2 triệu người vào năm 2030. Do ảnh hưởng của bão Covid-19, khi người dân miền Trung khó khăn về kinh tế sẽ gây thiệt hại rất lớn.

Renschler nói rằng do biến đổi khí hậu và đô thị hóa, rủi ro thiên tai sẽ luôn thay đổi. d Rentschler tuyên bố: “Bởi vì rủi ro sẽ tăng lên.”

Việt-Anh

Leave a Reply

Your email address will not be published.